Liên quan đến câu hỏi về chính sách thuế với hàng mẫu không thu tiền xuất đi nước ngoài không làm thủ tục hải quan, chính sách thuế được xác định như sau
Về ghi nhận doanh thu sổ kế toán và doanh thu thuế TNDN
Tại Khoản 5 Điều 7 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định:
5. Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại, giá tính thuế được xác định bằng không (0); trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại nhưng không thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại thì phải kê khai, tính nộp thuế như hàng hóa, dịch vụ dùng để tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho.
Một số hình thức khuyến mại cụ thể được thực hiện như sau:
a) Đối với hình thức khuyến mại đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền, tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền thì giá tính thuế đối với hàng mẫu, dịch vụ mẫu được xác định bằng 0.
Tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 quy định: 2. Điều kiện áp dụng thuế suất 0%: a) Đối với hàng hoá xuất khẩu:
Cơ sở pháp lý: Thông tư 219/2013/TT-BTC
Các trường hợp cơ sở kinh doanh có hàng hóa xuất khẩu hoặc hàng hóa được coi như xuất khẩu hướng dẫn tại Điều 16, Điều 17 Thông tư này nếu đã có xác nhận của cơ quan Hải quan (đối với hàng hóa xuất khẩu) nhưng không có đủ các thủ tục, hồ sơ khác đối với từng trường hợp cụ thể thì không phải tính thuế GTGT đầu ra nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Riêng đối với trường hợp hàng hóa gia công chuyển tiếp và hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, nếu không có đủ một trong các thủ tục, hồ sơ theo quy định thì phải tính và nộp thuế GTGT như hàng hóa tiêu thụ nội địa. Đối với cơ sở kinh doanh có dịch vụ xuất khẩu nếu không đáp ứng điều kiện về thanh toán qua ngân hàng hoặc được coi như thanh toán qua ngân hàng thì không được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%, không phải tính thuế GTGT đầu ra nhưng không được khấu trừ thuế đầu vào.
Khoản 3, Điều 29 Thông tư 200/2014/TT-BTC quy định: a) Trường hợp xuất hàng hóa để biếu tặng, khuyến mại, quảng cáo không thu tiền, không kèm theo các điều kiện khác như phải mua sản phẩm, hàng hóa…., kế toán ghi nhận giá trị hàng hóa vào chi phí bán hàng (chi tiết hàng khuyến mại, quảng cáo), ghi:
Có TK 156 – Hàng hóa (giá vốn).
https://manaboxvietnam.com/khau-tru-thue-gtgt-to-khai-phi-mau-dich/
Biên soạn: Hoàng Thị Lê Na – Tư vấn viên – Manabox Việt Nam
Bản tin này chỉ mang tính chất tham khảo, không phải ý kiến tư vấn cụ thể cho bất kì trường hợp nào.
Phòng 701, tầng 7, toà nhà 3D Center, số 3 Duy Tân, P Dịch Vọng Hậu, Q Cầu Giấy, TP Hà Nội
(HQ Online) - Tại Hội nghị trực tuyến đồng hành cùng DN vượt qua dịch Covid-19 do Tổng cục Hải quan tổ chức mới đây, nhiều DN FDI thành viên của Liên minh diễn đàn kinh tế Việt Nam (VBF) quan tâm đến việc hoàn thuế cho một số trường hợp xuất khẩu tại chỗ. Ngay sau khi Hội nghị kết thúc, Tổng cục Hải quan đã có hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
Theo Điều 34, Điều 36, Nghị định 134/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung tại Nghị định 18/2021/NĐ-CP: "Hàng hóa NK đã nộp thuế NK nhưng phải tái xuất được hoàn thuế NK và không phải nộp thuế XK, gồm hàng hóa NK nhưng phải tái xuất ra nước ngoài bao gồm XK trả lại chủ hàng, XK hàng hóa đã NK ra nước ngoài hoặc XK vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan... Người nộp thuế đã nộp thuế NK đối với hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài, hoặc XK vào khu phi thuế quan, được hoàn thuế NK đã nộp...”.
Theo VBF, như quy định trên, trường hợp hàng hóa XK ra nước ngoài hoặc vào khu phi thuế quan thì DN mới được hoàn thuế. Với trường hợp XK tại chỗ (DN nước ngoài chỉ định giao hàng cho một DN nội địa) thì không được hoàn thuế đối với nguyên vật liệu đã nhập loại hình kinh doanh sử dụng cho sản xuất hàng hóa XK tại chỗ. Trong khi đó, nếu nhập loại hình gia công/sản xuất XK từ đầu vẫn được miễn thuế (điểm g khoản 2 Điều 10 và điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định 134 được sửa đổi tương ứng tại Điều 1.4 và 1.6 Nghị định 18).
VBF cũng kiến nghị Tổng cục Hải quan hướng dẫn thống nhất về hoàn thuế cho trường hợp XK tại chỗ. Cụ thể, hàng hóa nhập theo loại hình kinh doanh đưa vào sản xuất hàng XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài, XK vào khu phi thuế quan hoặc XK tại chỗ thì DN được hoàn thuế cho hàng hóa NK cấu thành trong sản phẩm XK. Ngoài ra, hàng hóa NK, nhưng sau đó tái xuất ra nước ngoài bao gồm XK trả lại chủ hàng, XK hàng hóa đã NK ra nước ngoài hoặc XK vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan hoặc XK tại chỗ thì DN được hoàn lại tiền thuế NK đã nộp.
Trả lời kiến nghị của VBF, theo Tổng cục Hải quan, về việc hoàn thuế đối với hàng hóa NK theo loại hình nhập kinh doanh đưa vào sản xuất hàng XK: Căn cứ Điều 36 Nghị định số 134 quy định người nộp thuế đã nộp thuế NK đối với hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài, hoặc XK vào khu phi thuế quan được hoàn thuế NK đã nộp.
Cũng căn cứ quy định nêu trên, trường hợp hàng hóa NK theo loại hình nhập kinh doanh đã nộp thuế NK, DN đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài hoặc XK sản phẩm vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan thì được hoàn thuế NK.
Các trường hợp khác không XK ra nước ngoài hoặc không XK vào khu phi thuế quan thì không thuộc các trường hợp được hoàn thuế NK.
Còn đối với hàng hóa NK, sau đó tái xuất, theo Tổng cuc Hải quan, căn cứ Điều 34 Nghị định số 134 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 17 Điều 1 Nghị định 18 quy định, hàng hóa NK nhưng phải tái xuất ra nước ngoài bao gồm XK trả lại chủ hàng, XK hàng hóa đã NK ra nước ngoài hoặc XK vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan. Việc tái xuất hàng hóa phải được thực hiện bởi người NK ban đầu hoặc người được người NK ban đầu ủy quyền, ủy thác XK.
Như vậy, đối với trường hợp hàng hóa NK đã nộp thuế NK nhưng không tái xuất ra nước ngoài hoặc không tái xuất vào khu phi thuế quan mà được tái xuất tại chỗ theo chỉ định của thương nhân nước ngoài cho DN khác trong nội địa thì không thuộc trường hợp được hoàn thuế NK.
Mặt khác, người nộp thuế đã nộp thuế NK đối với hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK (bao gồm cả hàng hóa đem thuê/giao gia công một phần công đoạn sản xuất) và đã XK sản phẩm (bao gồm cả XK tại chỗ): Căn cứ Điều 36 Nghị định số 134 quy định người nộp thuế đã nộp thuế NK đối với hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài, hoặc XK sản phẩm vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan được hoàn thuế NK đã nộp.
Như vậy, Điều 36 Nghị định 134 không quy định hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh được thuê/giao tổ chức, cá nhân khác gia công lại một phần công đoạn trong quá trình sản xuất thì được miễn thuế NK như đối với hàng hóa NK để gia công, sản xuất XK quy định tại Điều 10, Điều 12 Nghị định 134/2016/NĐ-CP. Do vậy, trường hợp DN đã nộp thuế đối với hàng hóa NK nhưng sau đó không trực tiếp đưa vào sản xuất hàng hóa XK mà đem thuê/gia công một phần công đoạn sản xuất thì không được miễn thuế NK.
Cũng theo quy định tại Điều 36 Nghị định 134, trường hợp hàng hóa NK theo loại hình nhập kinh doanh đã nộp thuế NK, DN đã đưa vào sản xuất hàng hóa XK và đã XK sản phẩm ra nước ngoài hoặc XK sản phẩm vào khu phi thuế quan để sử dụng trong khu phi thuế quan thì được hoàn thuế NK. Các trường hợp không XK sản phẩm ra nước ngoài hoặc không XK sản phẩm vào khu phi thuế quan thì không thuộc các trường hợp được hoàn thuế NK.