(HQ Online) - Với tinh thần tích cực, chủ động, Việt Nam ngày càng gặt hái nhiều kết quả quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang thực thi và 2 FTA đang đàm phán đã đưa Việt Nam vào trung tâm của “dòng chảy” thương mại toàn cầu, trợ lực mạnh mẽ cho hoạt động XNK, giúp Việt Nam từng bước vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19, củng cố, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Triển khai mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính
Về cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế, Nghị quyết triển khai mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính nhất là các thủ tục liên quan đến đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế,... và cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, các thủ tục không cần thiết để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tra cứu và thực thi.
Xây dựng cơ chế, chính sách để thúc đẩy xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát của các lĩnh vực kinh tế - xã hội áp dụng các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới/tích hợp để có chính sách quản lý phát triển kịp thời và phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế số, sáng tạo, khởi nghiệp…
Cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng, minh bạch
Về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, Nghị quyết đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng, minh bạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh mang đến sự ổn định và dễ dự đoán của chính sách. Đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, thực chất hơn để giải quyết triệt để được những vấn đề còn vướng mắc đối với môi trường kinh doanh. Khắc phục tình trạng thiếu kết nối, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan đối với từng lĩnh vực phụ trách.
Tích cực triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, du lịch, xây dựng thương hiệu; phát triển thương mại điện tử để tăng cường khả năng giao dịch, tìm kiếm, mở rộng thị trường…
Để thực thi hiệu quả các FTA, Nghị quyết đưa ra giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành; phát huy hiệu quả cơ chế tham vấn giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp trong quá trình đề xuất, lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán các FTA mới cũng như trong việc tháo gỡ những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường xuất khẩu; ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp trong các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và tiềm năng xuất khẩu.
Tiếp tục thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết trong các FTA; nghiên cứu, đề xuất phương án đàm phán các FTA mới cũng như nâng cấp một số FTA đã ký kết; nghiên cứu và tập trung triển khai có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là kế hoạch thực thi các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP…
(VOV.VN) Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao, chủ động tham gia và đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới...
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Nghị quyết số 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế khẳng định, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, nhất là từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng năm của nền kinh tế Việt Nam.
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước đưa Việt Nam khẳng định được vị thế trên trường quốc tế và thu hút các nhà đầu tư.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước đưa Việt Nam khẳng định được vị thế trên trường quốc tế và trong mắt các nhà đầu tư.
Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 do Ngân hàng Thế giới công bố dự báo Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017 (82/190 nền kinh tế). Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế - tài chính và các hiệp định thương mại.
Theo thống kê của Trung tâm WTO (thuộc VCCI), tính đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 13 FTA (gồm 7 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN và 6 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập), và đang hiện đàm phán 3 FTA (gồm Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực - RCEP, FTA với Khối thương mại tự do châu Âu - EFTA, FTA Việt Nam - Israel.
Việc Việt Nam ký kết các FTA song phương và đa phương đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp cận được thị trường khu vực và thị trường toàn cầu,cũng như được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác thuận lợi hơn. Bởi phần lớn các rào cản và điều kiện trong buôn bán đã được cam kết dỡ bỏ, chủ yếu là các hàng rào thuế quan (hầu hết về 0% hoặc dưới 5%) đã mang lại một lợi thế cạnh tranh lớn và một triển vọng tươi sáng cho nhiều ngành sản xuất hàng hóa trong nước.
Theo đánh giá của ông Trịnh Minh Anh, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế - Bộ Công Thương, hiện Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế ở mức rất cao. Đó là việc chủ động tham gia và đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, gần đây nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh chau Âu (EVFTA và EVIPA).
Đây là những FTA có tác động, ý nghĩa rất lớn, giúp thực hiện thành công chiến lược thị trường, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Cho đến nay đã có gần 100 quốc gia đã có FTA với Việt Nam, ông Trịnh Minh Anh nêu rõ.
Nhận định về độ mở của nền kinh tế Việt Nam, ông Trịnh Minh Anh cho biết, sau hơn 10 năm kể từ khi Việt Nam tham gia WTO, GDP của Việt Nam đã tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%, độ mở của nền kinh tế liên tục tăng, năm 2018 tăng trên 200%.
"Điều này cho thấy Việt Nam là đất nước đã gắn bó sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mà đang trong tiến trình chỉ có tiến và tiến nhanh chứ không được đi chậm. Đây là cũng là minh chứng cho đường lối, chủ trương chính sách hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế", ông Trịnh Minh Anh nhấn mạnh.
Chia sẻ về thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công Thương cho biết, FTA thực chất là thỏa thuận mở cửa thị trường với sự tham gia của ít nhất hai thành viên, và với mục đích cắt giảm hoặc loại bỏ hàng rào thuế quan, dịch vụ và đầu tư tạo thuận lợi cho thương mại. Vì vậy, trong những năm gần đây, thế giới chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của các FTA để thiết lập các Khu vực thương mại tự do. Nhằm phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới và khu vực, Việt Nam cũng đàm phán và ký kết các FTA với các tổ chức quốc tế và khu vực.
Gia nhập ASEAN từ năm 1995, Việt Nam đã chính thức mở cửa hội nhập và bắt đầu tham gia các FTA. Tuy nhiên, ban đầu mới chỉ tham gia FTA với tư cách là thành viên khối ASEAN. Theo ông Lương Hoàng Thái, giai đoạn này chủ yếu Việt Nam tham gia là các FTA thế hệ cũ, tập trung biện pháp ở biên giới, ít đi sâu vào quy định trong khuôn khổ chính sách quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam tham gia vào các FTA này đều ở góc độ bị động. Bởi tất cả quy định của ASEAN đều có sẵn, Việt Nam không được đàm phán bất kỳ quy định nào và lợi ích khi đó hầu như không có, bởi các đối tác trên đều là đối tượng cạnh tranh sát sườn.
Tuy nhiên, sau đó, Việt Nam đã bắt đầu chủ động hơn, chủ động lựa chọn đối tác tham gia và vươn ra các thị trường xa hơn. Hiệp định đầu tiên manh nha là FTA Việt Nam - Nhật Bản. Tiếp theo đó là FTA Việt Nam - Chile… và gần đây là Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA, ông Lương Hoàng Thái thông tin thêm.
Nếu như trước đây, Việt Nam tham gia FTA ở thế bị động, thì đến nay, Việt Nam tham gia ở thế chủ động hơn, chủ động lựa chọn đối tác. Đặc biệt, Việt Nam có sự chuyển đổi về chất trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, tham gia FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn cao hơn. Chính vì vậy, bà Cecilia Malmsrom - Cao ủy thương mại của EU, khi đến Việt Nam ký Hiệp định EVFTA vừa qua, đã chia sẻ rằng, Hiệp định EVFTA là hiệp định tham vọng nhất mà EU ký với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hóa, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hóa ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn trên thế giới. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Gạo trở thành một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đây là thành tựu đáng kể của hoạt động sản xuất và kinh doanh gạo và lại càng đáng kể hơn khi cách đây 20 năm nước ta vẫn còn phải nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên, sản xuất để đáp ứng “cái ăn” của hơn 80 triệu dân Việt Nam, khác với sản xuất lúa hàng hóa tham gia thị trường thế giới với tư cách là nước xuất khẩu. Nhiều vấn đề khúc mắc cần phải giải quyết đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo số liệu mới công bố vào tháng 12/2008 của Bộ Thương Mại, mặc dù số lượng gạo xuất khẩu của ta nhiều, đứng thứ hai trên thế giới về mặt khối lượng nhưng lại chỉ xếp thứ tư thế giới xét về mặt giá trị xuất khẩu. Điều này là do chất lượng gạo không đảm bảo, từ khâu chọn giống lúa, bảo quản, vận chuyển và chế biến đều thiếu và yếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý điều hành xuất khẩu gạo không hợp lý cùng với công tác dự báo thị trường kém nên thường để lỡ cơ hội xuất khẩu khi giá gạo lên cao và lại bán ra ồ ạt khi giá gạo xuống thấp. Đối với các loại gạo đã có thương hiệu, có chỉ dẫn địa lý thì giá cả ổn định, có thể định giá cao mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận mua, trong khi đó gạo xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã có mặt trên thị trường từ rất lâu xong hoàn toàn chưa có thương hiệu nên giá gạo thường xuyên biến động, khó dự đoán, khó có thể định một mức giá quá cao để bán. Vì thế giá gạo Việt Nam thường thấp, chỉ gần bằng 85% giá gạo xuất khẩu thế giới, thấp nhất trong 4 cường quốc xuất khẩu gạo còn lại (Thái Lan, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pakistan). Hạn chế về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm nên Việt Nam cũng chưa thể thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Với những lợi thế của mình Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện được chất lượng gạo để bán với giá cao hơn. Để có thể phát huy hết tiềm năng của một nền nông nghiệp lúa nước, cần phải nhìn nhận lại thực trạng sản xuất lúa hàng hóa và việc xuất khẩu gạo những năm vừa qua. Việc xem xét đánh giá đó được đặt trong bối cảnh chung của thế giới nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), có nghiên cứu, xem xét và so sánh với những quốc gia có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, từ đó tìm đến những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của em khi chọn đề tài “Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài. 1 2. Mục tiêu nghiên cứu. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3 4. Kết cấu của đề tài. 3 5. Phương pháp nghiên cứu. 3 CHƯƠNG 1. 5 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 5 1.1. Lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế. 5 1.1.1. Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế. 5 1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. 7 1.2. Khái quát về hoạt động xuất khẩu. 8 1.2.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu. 8 1.2.2. Quan điểm về xuất khẩu trong các lý thuyết ngoại thương. 9 Bảng 1.1. Số liệu khả năng sản xuất ti vi và lúa ở Nhật Bản và Việt Nam . 11 Đồ thị 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia Nhật bản và Việt Nam khi không có thương mại. 12 Đồ thị 1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia Nhật Bản và Việt Nam khi có thương mai. 13 1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế quốc dân. 15 1.4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế. 17 1.5. Thị trường xuất khẩu gạo thế giới và kinh nghiệm xuất khẩu gạo của một số nước 20 1.5.1. Thị trường xuất khẩu gạo thế giới. 20 Biều đồ 1.1. Biến động xuất nhập khẩu gạo trên thế giới 1990-2008. 21 1.5.2. Cơ cấu xuất khẩu gạo thế giới:. 23 Bảng 1.2. Các nước xuất khẩu chủ yếu trên thế giới. 23 1.5.3. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của một số nước trên thế giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 24 1.5.3.1. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan. 24 1.5.3.2. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Ấn Độ. 28 1.5.3.3. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Trung Quốc. 30 1.5.3.4. Bài học kinh nghiệm xuất khẩu gạo cho Việt Nam . 32 1.6. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến nông nghiệp, sản xuất và xuất khẩu gạo 35 CHƯƠNG 2. 40 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 40 2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1989 - 2008. 40 2.1.1. Cơ chế điều hành quản lý xuất khẩu gạo. 40 2.1.2. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo. 43 Bảng 2.1. Lượng gạo xuất khẩu bình quân năm qua các thời kỳ. 43 Biểu đồ 2.1. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam 44 giai đoạn 1989 – 2008. 44 2.1.3. Giá gạo xuất khẩu. 50 Biểu đồ 2.2. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới giai đoạn 1989– 2008. 50 2.1.4. Chủng loại và chất lượng gạo xuất khẩu. 58 2.1.4.1. Chủng loại gạo xuất khẩu. 58 2.1.4.2. Chất lượng gạo xuất khẩu. 59 2.1.5. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam 63 2.1.5.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực. 63 Hình 2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989 - 2006. 65 2.1.5.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo theo quốc gia. 67 Biểu đồ 2.3. 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008. 70 2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam 72 2.2.1. Yếu tố tự nhiên. 72 2.2.2. Yếu tố nguồn lực. 75 2.2.3. Những tác động ảnh hưởng từ chính sách kinh tế vĩ mô. 76 2.3. Đánh giá sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu định lượng. 80 2.3.1. Hệ số lợi thế so sánh hiển thị (RCA). 80 Bảng 2.2. Lợi thế so sánh hiển thị của gạo Việt Nam giai đoạn 2001- 2008. 80 2.3.2. Hệ số chi phí tài nguyên nội địa (DRC). 82 Bảng 2.3. Hệ số chi phí lao động của Việt Nam trong sản xuất lúa gạo. 83 ( So với các nước ở khu vực Châu Á). 83 2.4. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 85 CHƯƠNG 3. 93 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM . 93 3.1. Phương hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới 93 3.1.1. Dự báo xuất khẩu gạo của thị trường thế giới 93 3.1.2. Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam tới năm 2020. 97 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo củaViệt Nam trong thời gian tới 98 3.2.1. Đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo hướng tạo ra sản phẩm chất lượng cao. 98 3.2.2. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu. 101 3.2.3. Nâng cao sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ về thị trường. 102 3.2.4. Tăng cường công tác quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2008 - 2020 105 3.2.5. Tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế để thực hiện có hiệu quả các cam kết, các hiệp định trợi giúp kỹ thuật và tài chính cho các chương trình dự án phát triển xuất khẩu gạo. 109 3.2.6. Tăng cường vai trò của Hiệp hội lương thực Việt Nam. 110 KẾT LUẬN 113 TÀI LIỆUTHAM KHẢO 116
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự hiệu quả. Trong khi đó, một số nước giàu thuộc WTO vẫn có một số biện pháp để duy trì việc trợ cấp cho nền nông nghiệp của họ và tạo ra nhiều rào cản đối với hàng nông sản nhập khẩu, tạo ra sự cạnh tranh không công bằng, đặc biệt là đối với những nước có nền kinh tế ở giai đoạn đang phát triển như Việt Nam. Chẳng hạn như, EU vẫn duy trì mức trợ cấp cho nông nghiệp của mình thông qua nguồn “hỗ trợ” từ người tiêu dùng khi họ thường phải mua các nông sản với giá cao hơn hẳn so với giá quốc tế (nhất là đối với đường, sữa, thịt bò) do sự bảo hộ cao qua mức thuế quan cao và hạn ngạch thuế quan; Năm 2001 Mỹ đã chi 763 triệu USD để trợ cấp cho sản xuất gạo và 2,8 tỉ USD cho trợ cấp nông nghiệp, do vậy, giá gạo của Mỹ thấp hơn 35% so với khi không có trợ cấp. Nói cách khác, Việt Nam đang thiệt thòi mất 35% tính trên mỗi tấn gạo xuất khẩu. Nhìn chung, khi hàng rào bảo hộ bị thu hẹp, sản xuất trong nước sẽ phải đối mặt với mức độ cạnh tranh lớn hơn từ bên ngoài, không loại trừ sẽ có khả năng biến động ở một số ngành, nhất là nông nghiệp, một ngành mà tính linh hoạt trong chuyển đổi không cao. Dù đây chủ yếu sẽ là biến động cục bộ nhưng vẫn đòi hỏi ta phải khẩn trương rà soát để có biện pháp chủ động đối phó với tình hình này như việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi mới công nghệ đi đôi với việc hoàn thiện các công cụ tự vệ được WTO cho phép, hoàn thiện cơ chế thu thập và xử lý thông tin, cơ chế đánh giá cảnh báo định kỳ các tác động để chủ động hơn trong việc ứng phó với các biến động trên thị trường thế giới và trong nước. Thứ ba, gạo Việt Nam phải vượt qua các rào cản kỹ thuật gắt gao hơn từ các nước nhập khẩu. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là một trong những rào cản phi thuế quan được sử dụng trong hầu hết các ngành công nghiệp, đặc biệt là nông sản chế biến như là một công cụ nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu vào thị trường một nước. Các rào cản kỹ thuật đề cập tới những tiêu chuẩn của hàng hóa mà mỗi nước quy định khác nhau và thường là các quy định về an toàn vệ sinh dịch tể, chất lượng và an toàn thực phẩm, phòng chống gian lận thương mại, các tiêu chuẩn đo lường, nhận dạng.... Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT- Technical Barriers to Trade) của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO được xây dựng trên mong muốn bảo đảm rằng những quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật (bao gồm việc đóng gói, đánh dấu, dán nhãn) không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Tuy nhiên, một số nước đã sử dụng những tiêu chuẩn kỹ thuật này như một hàng rào ngăn chặn nguồn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo hộ hàng hóa trong nước. Chính vì thế khi hội nhập kinh tế quốc tế, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như lúa gạo sẽ phải đối đầu với những thách thức lớn mà rào cản kỹ thuật là một trong những vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm để tìm cách vượt qua. Minh chứng rõ nhất là vụ kiện gạo xuất khẩu của Việt Nam sang Ghana – một trong những thị trường nhập khẩu gạo lớn từ Việt Nam. Khi nhận thấy lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam đạt một thị phần đáng kể trong tổng lượng nông sản nhập khẩu của Ghana và người tiêu dùng Ghana đang quen dần với mặt hàng này thì biện pháp rào cản kỹ thuật trong thương mại của Ghana áp dụng đối với gạo nhập khẩu của Việt Nam là cấm nhập khẩu một số loại gạo thơm có nguồn gốc từ giống lúa ST3, ST7, IR54 của Việt Nam được trồng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long với lý do: lạm dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng, kháng sinh...Bởi vậy, khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không tích cực có các biện pháp phòng tránh thì chắc chắn rằng các rào cản kỹ thuật sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với kim ngạch xuất khẩu gạo. Trước hết về mặt an toàn thực phẩm, trong suốt quá trình sản xuất, phải có chứng chỉ “nông nghiệp an toàn” hoặc “nông nghiệp tốt” để chứng minh mặt hàng này luôn an toàn vệ sinh. Chu trình sản xuất nông nghiệp an toàn là một bộ hồ sơ trình bày công nghệ sản xuất của nông trại từ A đến Z của dây chuyền sản xuất, bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác cho đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ. Riêng đối với gạo, áp dụng các quy định tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn của HACCP,IPPC, OIE, CODEX và GMP… Các tiêu chuẩn này đều quy định khắt khe về quá trình sản xuất, thu hoạch lúa gạo. Chẳng hạn muốn đạt được tiêu chuẩn HACCP, trong khâu sản xuất - sinh học trên đồng ruộng, nông dân phải áp dụng GAP - là chu trình nông nghiệp an toàn, GAP đòi hỏi không có dư lượng thuốc trừ sâu và thuốc kích thích tăng trưởng trong nông phẩm. Bên cạnh các tiêu chuẩn chung, ở mỗi nước lại yêu cầu phải đáp ứng được những yêu cầu của riêng thị trường đó về mặt hàng nông sản nhập khẩu như môi trường, các chất hóa học, hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật, bao bì, quy cách đóng gói, nhãn hiệu thậm chí cả điều kiện làm việc và phúc lợi của người nông dân. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, việc buôn bán với thị trường thế giới đòi hỏi gạo Việt Nam phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy cách về an toàn thực phẩm cùng với các đòi hỏi về đóng gói, bao bì, dãn nhãn, số lượng lớn, chất lượng gạo phải đồng đều, giao hàng phải đúng hẹn…Trong điều kiện hiện nay của nông nghiệp Việt Nam thì những đòi hỏi trên thực sự là thách thức rất lớn. Lúa gạo xuất khẩu của ta theo đánh giá của các nhà nhập khẩu là chất lượng không ổn định, có độ ẩm và tỷ lệ gãy vỡ cao, hay bị biến màu, và đa phần có chất lượng thấp .Hơn nữa, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm của Việt Nam luôn là vấn đề được quan tâm đặc biệt đối với các nhà nhập khẩu do lạm dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng, kháng sinh....Vì thế, khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không tích cực có các biện pháp phòng tránh thì chắc chắn rằng các rào cản kỹ thuật sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với kim ngạch xuất khẩu nông sản nói chung và mặt hàng gạo nói riêng. Ngoài ra, yêu cầu phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường như một rào cản phi thuế quan – rào cản xanh – cũng là một thách thức lớn đối với các mặt hàng xuất khẩu của ta khi hội nhập kinh tế quốc tế.Trên thực tế, Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác ngày càng phải đối đầu với những yêu cầu ngày càng khắt khe về mặt môi trường của các nước phát triển. Khi môi trường đang trở thành một vấn đề nóng bỏng mang tính toàn cầu như hiện nay thì các nước phát triển lại càng có xu hướng sử dụng nhiều hơn các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường như một công cụ hạn chế hàng hóa của các nước kém phát triển hơn. Đặc biệt là gạo, một hàng hóa nông sản mà quá trình sản xuất trực tiếp tác động với môi trường, sẽ có thế vấp phải những rào cản xanh được dựng lên. Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, chắc chắn rằng các nước sẽ không ngừng sử dụng các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh môi trường như những rào cản để bảo hộ sản phẩm trong nước mà không trái với Luật pháp và quy ước quốc tế. Vì các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ngày càng nhiều hơn và chưa được xác định một cách rõ ràng nên chúng ta cần phải chủ động phòng ngừa một cách hiệu quả các rào cản đang thực sự là vấn đề toàn cầu này. Hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu tất yếu, cần thiết của nước ta trong điều kiện hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để chúng ta mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài cho những mặt hàng chủ lực của ta, trong đó có mặt hàng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, khi kinh tế của từng địa phương gắn kết với kinh tế cả nước và toàn cầu thì các biến động giá cả, tác động chính sách, rào cản kỹ thuật, khiếu kiện thương mại trên thị trường quốc tế sẽ tác động trực tiếp đến người sản xuất - kinh doanh trên quy mô rộng với tốc độ rất nhanh . Đây chính là những thách thức chủ yếu mà hàng hóa xuất khẩu nói chung và mặt hàng gạo xuất khẩu nói riêng phải đối mặt. Vì thế cần xây dựng những biện pháp phòng chống rủi ro, bình ổn và bảo vệ sản xuất, tiêu dùng đáng tin cậy và phù hợp. Riêng đối với ngành xuất khẩu gạo, chúng ta phải nỗ lực cải thiện chất lượng gạo để đạt được tiêu chuẩn quốc tế về độ bóng, tỷ lệ tấm, độ dẻo, vệ sinh an toàn thực phẩm…xây dựng thành công thương hiệu gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới cũng như luôn giữ được “chữ tín” cho sản phẩm gạo với các đối tác quốc tế. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM 3.1. Phương hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới 3.1.1. Dự báo xuất khẩu gạo của thị trường thế giới Cuộc khủng hoảng lương thực bắt đầu từ năm 2008 vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt, thậm chí còn nặng nề thêm do ảnh hưởng của cơn bão tài chính toàn cầu. Trong đó, diễn biến trên thị trường gạo là một trong những nguyên nhân góp phần làm gia tăng mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng. Theo dự báo của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2016, thị trường gạo thế giới sẽ còn tiếp tục biến động mạnh với các xu hướng chính sau: * Mậu dịch gạo thế giới tăng tăng lên trong thời gian tới . Theo dự báo, tình hình gia tăng dân số cùng với sự biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng mạnh mẽ khiến nhu cầu gạo tăng cao. Để đáp ứng được nhu cầu này trong gần 10 năm tới, mỗi năm thương mại gạo toàn cầu được dự đoán phải tăng khoảng 2,4 %, tức là đạt mức 35 triệu tấn vào năm 2016. Trong những năm tới các giống gạo hạt dài chiếm khoảng 3/4 thương mại lúa gạo toàn cầu. Gạo hạt dài được nhập khẩu bởi nhiều nước ở Nam và Đông Nam Á, Trung Đông và phần lớn các nước vùng Sahara – châu Phi, châu Mỹ Latinh. Gạo hạt ngắn và hạt trung bình dự kiến tăng 10 - 12%, được nhập chủ yếu bởi Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ... Xu hướng gia tăng thương mại gạo thế giới có thể chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 2008 đến 2010, mậu dịch gạo được dự báo tăng mạnh là do nỗi lo sợ khủng hoảng kinh tế có khả năng kéo dài trên toàn cầu, nên các quốc gia tăng cường dự trữ lương thực để đảm bảo an ninh lương thực. Theo dự báo mới nhất của FAO và Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI), tình trạng giãn nợ và thu nhập thấp do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính sẽ khiến nhu cầu gạo tăng do gạo vẫn là lương thực chính của gần một nửa trong hơn 6,6 tỉ dân cư toàn cầu. IRRI dự báo, mức tiêu thụ gạo của thế giới năm 2010 sẽ tăng hơn 1% so với năm 2008. Trong giai đoạn sau từ 2011 đến 2018, nền kinh tế toàn cầu có sự phục hồi. Các chuyên gia của Ban Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ dự báo, tiêu dùng gạo thế giới sẽ tăng chủ yếu là do dân số Châu Á tăng (Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ). Mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người tăng ở các nước Tây bán cầu, Trung Đông. Trong giai đoạn này, tiêu dùng gạo thế giới tăng phần lớn là do nhu cầu nhập khẩu gạo tăng ở Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Philippines và tiểu vùng Saharan của Châu Phi. Năm thị trường này chiếm khoảng 70% phần tăng cầu nhập khẩu lúa gạo của toàn thế giới trong giai đoạn 2011- 2018. Nhìn chung, mậu dịch gạo toàn cầu hứa hẹn sẽ tăng mạnh trong khoảng 10 năm tới. Trong đó, Châu Á và Châu Phi là 2 khu vực có tốc độ gia tăng thương mại lớn nhất. Châu Á dự báo sẽ tiếp tục tăng do áp lực tăng dân số, mặc dù tiêu dùng gạo bình quân đầu người có xu hướng giảm ở các nước Châu Á có thu nhập cao, nhưng dự báo nhu cầu lúa của Châu Á vẫn sẽ tăng thêm 38 triệu tấn mỗi năm. Nhu cầu lúa gạo của Châu Phi dự báo cũng sẽ tăng mỗi năm 50 triệu tấn lúa. * Nguồn cung cấp lúa gạo thế giới ngày càng khan hiếm. Diện tích gạo thế giới dự báo sẽ không mở rộng trong giai đoạn từ 2008 đến 2018, thấp hơn khoảng 2% so với mức tính toán của 1999/2000. Hầu hết các nước Châu Á đều không có, hoặc có khả năng rất ít mở rộng diện tích lúa. Trong thập kỷ tới, diện tích lúa ở Trung Quốc thu hẹp lại dự báo sẽ bù trừ vào diện tích mở rộng ở tiểu vùng Saharan ở Châu Phi và các nước châu Mỹ La tinh. Do tình hình biến động trên thị trường gạo thế giới diễn biến khó lường nên các nước xuất khẩu gạo chủ chốt không còn xuất khẩu ồ ạt mà đã bắt đầu có các chính sách điều chỉnh hạn chế xuất khẩu. Điều này báo trước một thị trường gạo khan hiếm nguồn cung trong tương lai. Là một trong số các nhà xuất khẩu gạo hàng đầu, Ấn Độ dự báo vẫn đứng ở vị trí thứ ba trong số các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Tuy nhiên, xuất khẩu gao của Ấn Độ thất thường. Trong những năm gần đây, lũ và hạn hán xảy ra ở nước này gây thiệt hại lớn về sản lượng lương thực, giá lúa mỳ tăng cao đã đẩy nhu cầu tiêu thụ gạo tăng. Nhu cầu tiêu thụ gạo trong nước tăng dẫn đến hạn chế trong xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới. Chính phủ nước này còn đang xem xét ban hành chính sách cấm xuất khẩu các loại gạo thường không phải basmati. Theo dự báo của USDA trong thập kỷ tới, dự báo xuất khẩu gạo Ấn Độ chỉ tăng trưởng khoảng hơn 30%, thị phần xuất khẩu gạo của Ấn Độ cũng chỉ tăng thêm 1% từ 16% năm 2007/08 lên khoảng 17% đến năm 2017/18. Thị phần gạo xuất khẩu dự báo sẽ giảm ở Hoa Kỳ, Pakistan, và Trung Quốc. Mặc dù Hoa Kỳ dự báo vẫn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ tư thế giới trong giai đoạn 2007/08 đến 2017/18, tuy nhiên trong giai đoạn này, xuất khẩu gạo Hoa Kỳ tăng chậm trong cả giai đoạn. Thị phần xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ trên thị trường thế giới sẽ giảm từ 12% năm 2007/08 xuống chỉ còn khoảng 10% vào năm 2017/18. Lý do, tăng nhu cầu trong nước và mở rộng sản xuất ở các vùng có diện tích hẹp, năng suất tăng chậm làm ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ. Pakistan hiện nay, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ năm thế giới, và có ít khả năng mở rộng diện tích lúa gạo. Ngoài ra, Pakistan còn đang đối mặt với vấn đề thiếu nước, các vấn đề môi trường liên quan đến nông nghiệp. Như vậy, xuất khẩu gạo Pakistan dự kiến tương đối ổn định, ở mức 3 triệu tấn một năm trong cả giai đoạn. Trung Quốc xuất khẩu trung bình 2,6 triệu tấn gạo trong giai đoạn 1998-2003, từ đó xuất khẩu gạo của Trung Quốc tiếp tục giữ ổn định ở mức 1 triệu tấn gạo. Khối lượng gạo xuất khẩu của Trung Quốc giảm từ năm 2004 do diện tích lúa thu hẹp lại dẫn đến nguồn cung trong nước hạn chế. Diện tích sản xuất lúa được dự báo là giảm nhẹ, bù lại năng suất tăng lên. Mức tiêu dùng giảm nhẹ bù cho dân số tăng. Nhìn chung, Trung Quốc mặc dù là nước sản xuất gạo nhiều nhất thế giới, nhưng sản xuất chỉ đủ đáp ứng cho nhu cầu nội địa ngày càng tăng cao nên lượng gạo dành cho xuất khẩu giảm. Ai Cập và EU cũng xuất khẩu gạo nhưng dự báo xuất khẩu gạo của Ai Cập sẽ giảm trong 10 năm tới, do tăng trưởng tiêu dùng gạo mạnh vượt mức tăng sản lượng. Xuất khẩu gạo Ai Cập hiện đã đạt gần tới mức kỷ lục. Diện tích trồng lúa dự báo sẽ không tăng, và năng suất lúa Ai Cập đạt mức gần cao nhất của thế giới. Xuất khẩu gạo EU dự báo không tăng và ổn định trong suốt giai đoạn 2008/09 đến 2017/18, sau khi tăng mạnh trong giai đoạn đầu dự báo. EU không cạnh tranh về giá trên thị trường gạo thế giới. Hầu hết xuất khẩu gạo EU tới các thị trường Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á và các nước châu Âu khác. * Giá gạo xuất khẩu tăng Giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới bắt đầu tăng kể từ cuối năm 2007 và đạt mức đỉnh vào năm 2008. Sau đó giá gạo bắt đầu hạ nhiệt và có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại vào đầu năm 2009. Theo dự báo của FAO, giá gạo thế giới sẽ chỉ tăng đến mức cao nhất vào năm 2009, sau đó bình ổn trở lại trong giai đoạn từ 2010 đến 2018.. Ngoài ra, theo dự báo này, tốc độ tăng GDP của các nước đang phát triển tuy sẽ giảm dần, nhưng chỉ giảm rất chậm từ 5,1% hiện nay xuống còn 4,3% năm 2018. Cùng với đó, số dân của toàn bộ các nước đang phát triển sẽ tăng mạnh từ 4,368 tỷ hiện nay lên 4,897 tỷ vào năm 2018. Do kinh tế phát triển nhanh và dân số vẫn tăng nhanh của nhóm nước này chắc chắn sẽ làm gia tăng nhu cầu về gạo. Trong khi đó, cho dù sản xuất lúa gạo thế giới vẫn tăng, nhưng do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, tốc độ tăng cũng cao hơn không đáng kể so với tiêu dùng, khiến giá gạo thế giới dự báo sẽ còn tăng trong thập kỷ tới. * Mặc dù nhu cầu tiêu thụ gạo được dự đoán tăng mạnh ở Châu Á nhưng đây cũng là khu vực xuất khẩu gạo chủ yếu trong thập kỷ tới. Dự báo trong giai đoạn 2008-2018, các nước sản xuất gạo ở Châu Á sẽ tiếp tục là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chính của thế giới: bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ. Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm khoảng nửa tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới. Việt Nam xuất khẩu gạo hạt dài là chủ yếu. Thái Lan xuất khẩu gạo thơm, gạo hạt dài đặc biệt và gao dính. Có thể thấy rằng nguồn cung xuất khẩu gạo của các Việt Nam và Thái Lan dự báo tăng do sản lượng gạo tăng do năng suất lúa được cải thiện; tiêu dùng gạo bình quân đầu người trong nước có xu hướng giảm. 3.1.2. Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam tới năm 2020 * Mục tiêu - Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo lương thực quốc gia và có lãi cho người sản xuất và người xuất khẩu. - Mở rộng thị trường xuất khẩu bằng cách xây dựng một hệ thống phân phối trên thị trường quốc tế và chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. - Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. * Định hướng : Đa dạng hoá nhiều loại với các chủng loại khác nhau để có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, cơ cấu của chủng loại sản phẩm phải thay đổi theo chiều hướng tích cực ngày càng có nhiều chủng loại chất lượng cao, đặc sản phù hợp, giảm tỷ lệ các loại gạo phẩm cấp thấp. Đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo đồng thời xác định và có sự ưu tiên đối với thị trường xuất khẩu gạo chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá, khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và biến những thị trường tiềm năng thành những thỉ trường quen thuộc và truyền thống của mình. Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mỗi quy mô của khách hàng. Điều đó đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước phải có cơ chế quản lý sinh hoạt mềm dẻo thích ứng với kịp thời những biến động của thị trường Tiếp cận và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có chương trình viện trợ lương thực để tranh thủ bán gạo, coi đây như là một cách để thâm nhập vào thị trường thế giới một cách sâu và rộng. Xây dựng mọi cơ sở nền tảng cho xuất khẩu gạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán thương mại Quốc tế. 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo củaViệt Nam trong thời gian tới 3.2.1. Đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo hướng tạo ra sản phẩm chất lượng cao. Là một cường quốc xuất khẩu gạo, tuy nhiên sản xuất lúa gạo của Việt Nam đang gặp phải hạn chế lớn nhất về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và chế biến xuất khẩu. Chất lượng gạo chưa cao, không được quản lý nghiêm ngặt là những trở ngại gây khó khăn cho việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây cũng là lý do khiến cho gạo Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ xuất đi các thị trường dễ tính mà chưa thâm nhập được sâu vào các thị trường cao cấp khác nơi mà gạo của Thái Lan, Hoa Kỳ, Ấn Độ đang chiếm lĩnh. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản đầu tư cho phát triển sản xuất gạo chất lượng cao có nhiều tiềm năng xuất khẩu hơn cũng như khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới thông qua một số hướng chính sau : * Hình thành các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu. Nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu những loại gạo mà ta có chưa hẳn là xuất khẩu cái mà thị trường cần đến. Cần phải nhanh chóng quy hoạch các vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu, chỉ có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tăng sức cạnh tranh. Nhà nước đã xác định vùng chuyên canh lúa xuất khẩu là Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng. Cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu khác nhau, giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng hơn nữa diện tích gạo có chất lượng cao nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch các vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể trong việc ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ, nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước của thời kỳ đó. Trong đó cần quan tâm giải pháp khuyến khích tích tụ và tập trung đất lúa trong vùng quy hoạch lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng để từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất lúa nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. * Cơ cấu lại giống lúa theo hướng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tăng cường đầu tư trại giống cấp tính để sản xuất đầu dòng, cung cấp cho các điểm trình diễn, câu lạc bộ, các tổ chức nhân giống sau đó cung ứng đến mọi tổ chức, cá nhân, hộ nông dân sản xuất kinh doanh giồng thương phẩm đại trà thành một mạng lưới rộng rãi, được phép mua bán, trao đổi trực tiếp với nông dân, tạo thị trường giống sôi động, đều khắp. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, diện tích sản xuất giống chiếm 3% diện tích đại trà nên mỗi tỉnh trung bình cần khoảng trên trên 2000 hộ nông dân tham gia sản xuất lúa giống xác nhận để cung cấp cho nông dân. Các hội đồng giống các tỉnh trồng lúa xuất khẩu xác định các giống lúa xuất khẩu phù hợp với địa phương, đặt hàng với các cơ quan khoa học sản xuất hạt siêu, mỗi trà một loại giống để nâng cao độ đồng đều của hạt lúa xuất khẩu, nguyên chủng các giống lúa xuất khẩu (OM1490, 2031, 1723, OMCS99, Ỉ64, 62032, VND95 – 20, MTL145, lúa thơm Việt Nam …) Đối với các viện, trường, các cơ quan nghiên cứu, quản lý ở trung cương về giống lúa cần thu thập, đánh giá và bảo quản quỳ gen ưu việt, có lợi thế so sánh để cung cấp nguyên liệu cho việc tạo giống có năng suất cao, chất lượng tốt kết hợp giữa chọn tạo giống ở trong nước với nhập nội giống mới cùng với phương tiện công nghệ hiện đại nhằm tranh thủ thời gian trong công tác tạo giống. Dùng kinh phí khuyến nông để mở nhiều đợt tập huấn, hội thảo, tham quan, trình diễn, chuyển giao kỹ thuật…nhằm phổ cập và nâng cao kiến thức về giống cho nông dân : do các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với các tổ chức , hợp tác xã, hộ nông dân và các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu giống lúa. Có cơ chế chính sách về quản lý, sản xuất lúa giống, khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước và liên doanh với nước ngoài được phép sản xuất và kinh doanh lúa giống, có đăng ký và chịu sự quản lý của Nhà nước như miễn giảm thuế, trợ giá giồng gốc, bản quyền tác giả về gióng, về hợp tác quốc tế xuất nhập khẩu giống. * Nâng cao kỹ thuật canh tác Cần cử cán bộ chuyên môn xuống cấp xã để truyền đạt kỹ thuật. Hướng dẫn canh tác cho các hộ nông dân trồng lúa xuất khẩu theo quy trình đã biên soạn trước cho từng loại giống lúa. Các quy trình này thông qua hoạt động thực tiễn phải được thường xuyên nâng cao cho phù hợp. Đổi mới chính sách ruộng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân canh tác theo hướng tăng cả về diện tích gieo trồng, năng suất cũng như chất lượng lúa. Như vậy, tạo ra sản phẩm gạo có chất lượng cao không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo mà còn là hàng rào hữu hiệu bảo vệ khả năng gây bệnh từ sản phẩm nước ngoài. Chính vì vây, việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao là một con đường tất yếu để Việt Nam hội nhập thành công. 3.2.2. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu Nâng cao chất lượng gạo trên cơ sở phát triển công nghệ hạt giống và công nghệ sau thu hoạch. Chuyển nền nông nghiệp số lượng sang chất lượng bằng cách tăng cường các ứng dụng công nghệ cao. Phải đảm bảo sự có mặt thường xuyên của sản phẩm gạo trên thị trường thế giới. Việc xuất khẩu gạo mang tính chất từng chuyến, từng đợt phụ thuộc vào thời vụ thu hoạch đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dưng thương hiệu. Để khắc phục hạn chế này, chúng ta có thể tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống các kho dự trữ đạt tiêu chuẩn cho phép các nhà xuất khẩu vừa có hàng đưa ra thị trường quanh năm, vừa giảm thiểu được tình trạng “được mùa rớt giá”, gây nhiều thiệt hại cho xuất khẩu. Phát triển vùng nguyên liệu chuyên canh để tạo sản phẩm thuần nhất. Nguyên liệu lúa gạo cho xuất khẩu hiện nay ở Việt Nam đang được cung cấp bởi vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Đặc điểm của sản xuất lúa gạo là sản phẩm rất dễ bị pha tạp, nhanh bị thoái hóa. Muốn tạo được nguyên liệu tốt cho chế biến xuất khẩu gạo cần lựa chọn, xác định bộ giống chất lượng cao, tạo mô hình nông nghiệp gắn kết với công nghệ chế biến, gắn sản xuất với thu mua, bảo quản và chế biến xuất khẩu. Tạo mối liên kết khăng khít giữa nhà nông, nhà kinh doanh, nhà khoa học nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích và tạo điều kiện hỗ trợ tối đa lẫn nhau giữa các đối tượng này. Có vậy mới tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng và mới xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm gạo của Việt Nam. Tạo cơ sở pháp lý (thương hiệu được đăng ký với các cơ quan quản lý trong nước và quốc tế, được chứng nhận của các tổ chức có uy tín về chất lượng, giá cả của sản phẩm), sau đó là quảng bá thương hiệu thông qua nhiều hình thức khác nhau để tạo dựng uy tín, trong đó quảng bá bằng cách kết hợp với phát triển du lịch là một cách thức vô cùng hữu hiệu và cần được lưu tâm trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 3.2.3. Nâng cao sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ về thị trường. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Để tăng sức cạnh tranh cho hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có giải pháp đồng bộ, không chi là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí mà còn phải mở rộng ra ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường…Các giải pháp cụ thể như : + Tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, nên phân loại thông tin thành hai nhóm để có hình thức tổ chức và cơ chế điều hành thích hợp là : nhóm thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu, chỉ đạo và tổ chức xây dựng chiến lược thị trường và nhóm thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tác nghiệp. Thông tin phải thiết thực, chính xác và toàn diện về : thị trường và điều kiện thâm nhập thị trường, cung cầu và giá cả, hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế điều hành, tập quán, văn hoá kinh doanh… cho cả hai đối tượng quản lý nhà nước và doanh nghiệp. + Đề ra chiến lược thâm nhập thị trường tầm cỡ quốc gia. Muốn cả cơ quan quản lý và các doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm vững điều kiện thâm nhập thị trường nhập khẩu, hiểu biết thấu đáo đối thủ cạnh tranh để xác định chiến lược kinh doanh hợp lý và vấn đề có tính nguyên tắc để xuất khẩu có hiệu quả. Điều kiện thâm nhập thị trường ở đây là điều kiện toàn diện của nước nhập khẩu trên phương diện luật pháp và các chính sách, cơ chế điều hành đặc biệt là chính sách thuế, phi thuế và các rào cản kỹ thuật nói chung, phong tục tập quán và văn hoá kinh doanh nói riêng… Còn nghiên cứu đối thủ cạnh tranh là chủ yếu nghiên cứu những thị trường mà họ đã xuất khẩu đáng kể. Giải pháp này giúp thành công trong tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại ở tầm nhà nước cũng như việc thực hiện các cuộc đàm phán cấp chính phủ và doanh nghiệp. + Quan tâm xây dựng thương hiệu gạo và quảng cáo sản phẩm. Vấn đề này rất đáng lưu ý đối với gạo của Việt Nam vì vai trò quan trọng của thương hiệu và quảng cáo, không chỉ đáp ứng yêu cầu kinh doanh trước mắt mà còn phục vụ cho cả một chiến lược kinh doanh lâu dài. Biện pháp này đòi hỏi chính phủ và doanh nghiệp nước ta phải nâng cao hơn nữa nhận thức về việc xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam. + Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống như : Inđônêxia, Cuba, Malaixia đồng thời mở rộng ra các thị trường mới nhất là các nước châu Phi, đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn các loại gạo có phẩm cấp thấp, giá rẻ mà Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng. Để thực hiện được mục tiêu này các doanh nghiệp cần phải tạo và giữ uy tín của mình thông qua việc nghiêm chỉnh thực hiện các hợp đồng đã ký kết đúng hạn, đúng số lượng. + Thị trường Trung Quốc : Trong đề án đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đến năm 2010 của Bộ Thương mại, gạo là một trong mười bốn mặt hàng có triển vọng xuất khẩu nhất. Chúng ta cần khai thác hơn nữa thị trường Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới này (khoảng 1,3 tỷ người); Trung Quốc là thị trường có mức tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây Trung Quốc nhập khẩu khá nhiều gạo của Việt Nam nhưng chủ yếu là nhập khẩu biểu ngạch. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, nhà nước phải có sự chỉ đạo đồng nhất trong hoạt động xuất khẩu : Thực hiện đàm phán, ký kết các hiệp định Thương mại ở các cấp độ khác nhau, bảo đảm quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định nhằm tránh những rủi ro và tổn thất. + Thị trường các nước ASEAN : Trong giai đoạn thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng thị trường ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy nhiên từ năm 1996 đến nay đã có những thay đổi, xu hướng giảm tỷ lệ bởi đặc trưng cơ bản của các nước ASEAN là có cơ cấu sản phẩm nông nghiệp giống nhau nên các nước này nhập khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là hình thức tạm nhập, tài xuất đặc biệt là Singapore nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng của Việt Nam. 3.2.4. Tăng cường công tác quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2008 - 2020 Phải phối hợp đồng bộ giữa tổ điều hành thị trường trong nước, hiệp hội lương thực, các doanh nghiệp lớn và các bộ ngành có liên quan để đưa ra chỉ thị điều hành xuất khẩu được chính xác. Đồng thời tăng cường công tác thông tin về giá cả hàng hoá và các dịch vụ về thị trường. Phổ biến kịp thời các cơ chế chính sách của Nhà nước, dự báo về chiều hướng cung cầu của hàng hoá và dịch vụ các thông tin chiến lược, chiến thuật và các biện pháp điều hành xuất khẩu của Nhà nước. Trên cơ sở đó sẽ nâng cao hiệu ứng và tính linh hoạt trong sản xuất và kinh doanh trong nước. Từ đó có giải pháp ứng phó Quốc tế, điều tiết nguồn cung trong các điều kiện cụ thể nhằm tác động vào thị trường và giá có lợi cho ta. * Thứ nhất, đối với mặt hàng gạo: Bỏ hạn ngạch, chỉ tiêu xuất khẩu nhưng cần công bố số lượng định hướng xuất khẩu hàng năm. Phải công bố số lượng định hướng xuất khẩu gạo vì lý do dưới đây: Một là, căn cứ vào nghị quyết của chính phủ về một số chủ trương và chính sách về chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thì lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh của nước ta. Phải đảm bảo an ninh lương thực đủ lúa gạo dự trữ quốc gia và số lượng cần thiết để xuất khẩu. Mức sản lượng ổn định khoảng 33 triệu tấn/năm, trong đó lúa gạo để ăn và dự trữ khoảng 25 triệu tấn/năm; số còn lại để xuất khẩu và cho các nhu cầu khác. Như vậy, lượng gạo hàng năm có thể xuất khẩu trên dưới 4 triệu tấn. Việc công bố kế hoạch có định hướng xuất khẩu hàng năm còn cần được hướng dẫn cụ thể về số lượng từng mùa vụ, có như vậy doanh nghiệp xuất khẩu mới chủ động tính toán trong kinh doanh. Đã nhiều lần xẩy ra, khi thị trường tiêu thụ thuận lợi, doanh nghiệp ồ ạt ký kêt hợp đồng, tập trung giao hàng… với số lượng vượt quá khả năng về hàng hoá, chế biến, bốc xếp, vận tải, bao bì dẫn đến mất cân đối với khả năng ở hầu hết các khâu nêu trên, làm giá trị thị trường biến động, doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và nhà nước đã phải can thiệp bằng những mệnh lệnh hành chính. Hai là, gạo là mặt hàng nhạy cảm. Biến động giá lúa gạo do việc kiểm soát yếu kém sẽ ảnh hưởng ngay đến đời sống của 80% dân số là nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Ba là, vẫn còn những yếu tố đe doạ an ninh lương thực Quốc gia, đó là nhu cầu lương thực ngày càng tăng do tỷ lệ dân số vẫn còn cao đó là diện tích đất sản xuất lương thực có xu hướng bị thu hẹp do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh tróng cùng với hiệu quả kinh tế thấp từ ngành trồng lúa. Cần phải xác định là xuất khẩu gạo trước hết là để khuyến khích sản xuất - kế hoạch xuất khẩu do vậy phải được kiểm soát tốt trong quá trình thực hiện. * Thứ hai, các giải pháp phát triển thị trường và bình ổn thị trường Giải pháp phát triển thị trường: Nhà nước phải lựa chọn được cơ cấu, xây dựng chính sách khuyến khích sản xuất, chế biến, xuất khẩu và Nhà nước định hướng, dự báo thị trường, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi và có những cam kết quốc tế để doanh nghiệp yên tâm hoạt động Về tình hình thị trường có thể thấy rõ các doanh nghiệp của ta nhìn chung chưa có được những hợp đồng lớn, ổn định và cũng chưa bán trực tiếp được gạo sang một số thị trường tiềm năng (thị trường Châu Phi). Để giải quyết vấn đề hợp đồng lớn cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm những thoả thuận ở cấp Chính phủ. Để hỗ trợ cho quá trình đàm phán và ký kết những thoả thuận như vậy, nước xuất khẩu cần phải có những thỏa hiệp nhất định với nước nhập khẩu. Thí dụ như, cấp tín dụng xuất khẩu (bán trả chậm) hoặc chấp nhận mua lại một lượng hàng hóa nào đó. Đối với việc bán trả chậm, Chính phủ đã bàn bạc nhiều lần và chấp nhận cho Bộ Thương Mại được đàm phán bán gạo trả chậm với khối lượng trước 300.000 tấn, thời hạn thanh toán sau 01 năm. Quyết định này đã mở ra những hướng đi mới cho xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, số lượng các cuộc đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu lớn ở cấp Chính phủ sẽ nhiều hơn nữa nếu được phép sử dụng một số chỉ tiêu nhập khẩu hàng hóa như: phân bón, sắt thép, xe tải… để tăng sức “mặc cả”. Một trong những thị trường có thể áp dụng những biện pháp này là Hàn Quốc bởi hàng năm Việt Nam vẫn thường nhập khẩu trên dưới 200.000 triệu USD phân bón, sắt thép, ô tô các loại từ thị trường này. Việc trực tiếp xuất khẩu gạo sang Châu Phi gặp khó khăn duy nhất là khả năng thanh toán của thị trường này. Để gải quyết vấn đề này, trước mắt cần dựa vào sự chi trả của các nước cung cấp viện trợ cho Châu Phi nhưng có thể thăm dò một hướng đi mới là đổi hàng. Hiện nay, ngành điều của ta đang có nhu cầu lớn đối với hạt điều thô của Châu Phi. Nếu có thể kết hợp nhập khẩu điều với xuất khẩu gạo thì sẽ tạo ra một giải pháp mới cho việc thâm nhập thị trường Châu Phi. Ngoài ra, cơ quan đại diện của Việt Nam tại các nước cung cấp nhiều viện trợ cho Châu Phi (đặc biệt là Hoa Kỳ) cần tìm hiểu kỹ hơn về khả năng thuyết phục các nước này mua, hoặc mua thêm gạo của Việt Nam cung cấp cho Châu Phi. Giải pháp bình ổn thị trường: Ổn định thị trường lương thực trong nước sẽ đảm bảo một nguồn cung vững chắc cho xuất khẩu. Muốn ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu cần có chính sách thị trường đúng và hiệu quả. Nhà nước phải lựa chọn cơ cấu và định hướng dự báo thị trường. Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo trực tiếp các doanh nghiệp trực thuộc và doanh nghiệp có trách nhiệm lo, đảm bảo phần lớn thị trường tiêu thụ ổn định đảm bảo giữ tín nhiệm gạo Việt Nam ở các thị trường đó. Người sản xuất phải có trách nhiệm tự bảo đảm uy tín về hàng hoá của mình, tổ chức lại sản xuất. Những nội dung cụ thể nên được thể hiện rõ trong cơ chế là: - Uỷ ban nhân dân tỉnh phối hợp hiệp hội ngành hàng chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải có kế hoạch và chủ động ký hợp đồng tiêu thụ lúa gạo với nông dân - Cần giữ một số thị trường đặc biệt có lợi nhuận cao hoặc có sự can thiệp của chính phủ và giao một vài doanh nghiệp tập chung giao dịch dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Bộ Thương Mại và Hiệp hội. Phần lớn lợi nhuận thu được từ các dịch vụ xuất khẩu từ những thị trường này bổ sung trực tiếp vào quỹ bảo hiểm xuất khẩu - Về kế hoạch trả nợ hàng năm, để không trái với các thoả thuận song phương đã ký với các nước, các doanh nghiệp được tự do giao dịch, nhưng ngoài việc tự đảm bảo hiệu quả kinh doanh phải có tỷ lệ đóng góp nhất định cho quỹ bảo hiểm xuất khẩu - Trước mắt để ổn định thị trường trong nước, nên giao một số doanh nghiệp có năng lực mua tạm trữ hoặc bán ra trong lưu thông để đề phòng, can thiệp khi có biến động ảnh hưởng đến tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy cần có quy định giá sàn tối thiểu và cơ chế đảm bảo giá sàn này. - Về lâu dài thành lập một số trung tâm lúa gạo để người sản xuất thuận tiện trong việc tiêu thụ hàng hoá của họ làm như vậy sẽ tránh được cách giải quyết theo kiểu tình thế, hiệu quả không cao như việc mua lúa gạo tạm trữ thường làm xưa nay. Mặt khác cần có tác động và can thiệp từ khâu sản xuất, ví dụ nhà nước giải quyết trợ cấp để hạ giá thành 3.2.5. Tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế để thực hiện có hiệu quả các cam kết, các hiệp định trợi giúp kỹ thuật và tài chính cho các chương trình dự án phát triển xuất khẩu gạo. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Do các nước đều nỗ lực tăng cường khả năng cạnh tranh xuất khẩu bằng các biện pháp đổi mới công nghệ sản xuất, đổi mới quản lý và phương thức kinh doanh nên chênh lệch về cạnh tranh chất lượng và giá thành sản phẩm giữa các nước đang phát triển và đã phát triển đang có khoảng cách. Vì vậy, trong bối cảnh đua tranh tìm kiếm thị trường quyết liệt, quan hệ buôn bán quốc tế ngày càng dựa trên quan hệ đối ngoại và hợp tác thương mại trao đổi ưu đãi hàng rào thuế quan, đặc biệt đối với các mặt hàng hàm lượng kỹ thuật thấp như gạo và các nông sản khác. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào đẻ hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhâp. Trên thực tế, kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới từ lâu nhưng vẫn ở trình độ thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế Việt Nam tham gia AFTA, ASEAN, APEC, WTO… nhưng sự tham gia đó vẫn dừng ở phạm vi hẹp, nhỏ cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng… Chính vì vây, trong thời gian tới, Việt Nam cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chiều sâu để tận dụng một cách tối đa các nguồn lực bên ngoài cho việc phát triển kinh tế, tạo cơ hội cho việc phát triển hoạt động xuất khẩu. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, Việt Nam cần hợp tác với các nước trong Liên Hợp Quốc, Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế, các cường quốc xuất khẩu gạo khác nhằm tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ mới vào lĩnh vực nông nghiệp. Hợp tác với Ngân Hàng Thế Giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), để tranh thủ vốn vay và các khoản tài trợ của các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến xóa đói giảm nghèo, dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. 3.2.6. Tăng cường vai trò của Hiệp hội lương thực Việt Nam. Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Đến nay, các hoạt động chế biến và lưu thông lúa gạo tuy đã có những bước phát triển đáng kể song vẫn đang còn nhiều trở ngại cần phải phấn đấu vượt qua. Công tác tổ chức xuất khẩu gạo đã có những chuyển biến tích cực, đã xuất hiện nhiều tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đa số có quy mô kinh doanh nhỏ, phương thức kinh doanh chậm đổi mới và chưa theo kịp được với những diễn biến của thị trường nên rất cần có một tổ chức đứng ra làm trung gian giữa doanh nghiệp và người nông dân, giữa doanh nghiệp và chính quyền, giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) sẽ là trung gian, là đầu mối liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp không còn được trợ cấp nữa. Sự hỗ trợ của Hiệp hội thể hiện ở việc cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu, hình thàh các kênh cung ứng và phân phối hàng hóa nông sản có tính quốc tế; hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Trong thời gian qua, VFA đã làm tốt hai hoạt động chính là xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin cho hội viên còn hoạt động đào tạo, dịch vụ tư vấn cho hội viên thì chưa thực sự thành công do hiệp hội chưa đủ nguồn lực và điều kiện để triển khai các hoạt động này. Vì vậy, trong thời gian tới, VFA cần xây dựng chương trình hoạt động cụ thể để có thể nâng cao năng lực hỗ trợ cho hội viên. Hiệp hội cần chú trọng cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin cho doanh nghiệp về xu hướng biến động của thị trường gạo thế giới cả về sản lượng và giá cả. Đồng thời cần phối hợp với các hiệp hội chuyên ngành trong và ngoài nước, xây dựng hồ sơ ngành hàng, thị trường, chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ và xây dựng đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên, tình nguyện viên ở trong và ngoài nước để tăng cường khả năng tư vấn của hiệp hội. Đông thời, đẩy mạnh haotj động phổ biến thông tin dưới nhiều hình thức nhanh nhạy, kịp thời, phương tiện phong phú, với nội dung thiết thực, bổ ích cho doanh nghiệp. Hiệp hội cũng có thể trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua việc tổ chức cho các doanh nghiệp trong nước ra nước ngoài để tham gia hội nghị, hội chợ, triển lãm, khảo sát thị trường, tìm cơ hội kinh doanh. Hỗ trợ các doanh nghiệp xác minh và kiểm tra đối tác trước khi đặt quan hệ kinh doanh. Hỗ trọ các doanh nghiệp trong việc phòng tránh và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh, tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện bảo hộ sở hữu thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế của mình. Không chỉ có vậy, Hiệp hội còn phải đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng hóa, tích cực đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp quy tạo một hành lang pháp lý thuận lợi, bình đẳng trong hoạt động xúc tiến thương mại. Đồng thời, Hiệp hội cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp. Cụ thể là, trong chương trình công tác hàng năm, hiệp hội cần dành một nguồn lực đáng kể cho việc xây dựng các chương trình đào tạo với nội dung thiết thực, hình thức tổ chức phù hợp (chẳng hạn tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn), tiến hành kiểm tra, đánh giá sau khi kết thúc khóa học. Cùng với đó, Hiệp hội nên tận dụng nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, Hiệp hội còn là tổ chức đứng ra bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài việc cung cấp thôn tin về thị trường thế giới, Hiệp hội còn giúp các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn nhất về giá cả và sản lượng buôn bán trên thị trường thế giới. Hiệp hội còn thay mặt cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đứng ra dàn xếp các vụ kiện, tranh chấp mang tầm cỡ quốc tế, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần phải nhận thức rõ về sức ép của hội nhập để từ đó có ý thức rõ ràng về vai trò, tính chất và chức năng của hiệp hội, thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm đối với hiệp hội để hoạt động của hiệp hội có hiệu quả hơn. . KẾT LUẬN Sản xuất và xuất khẩu gạo là lĩnh vực có vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế thế giới, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển. Do những điều kiện khác nhau về nguồn lực và trình độ phát triển giữa các nước mà từ lâu, hoạt động xuất khẩu gạo đã trở thành một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế, mang lại lợi ích kinh tế cho nhiều nước. Trong thời gian sắp tới, nhu cầu về gạo sẽ vẫn ở mức cao. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các quốc gia có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu gạo tiếp tục mở rộng thị trường phát huy thế mạnh và khẳng định chỗ đứng trên trường quốc tế. Gạo là một sản phẩm quan trọng đối với nước ta, nó không chỉ đóng vai trò trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng lương thực hàng ngày của người dân Việt Nam mà còn là một mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Bên cạnh đó, với lợi thế tự nhiên sẵn có và lực lượng lao động dồi dào, sản xuất và xuất khẩu gạo được coi là một trong những ngành có thế mạnh nhất của Việt Nam. Từ một nước lạc hậu, thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Tính đến hết năm 2008, sau 19 năm xuất khẩu gạo, gạo Việt Nam đã có mặt trên hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng sản lượng gạo xuất khẩu đạt trên 65 triệu tấn. Trong 19 năm đó thì có đến 16 năm Việt Nam đứng ở vị trí thứ hai và 3 năm đứng ở vị trí thứ ba thế giới xét về mặt sản lượng gạo xuất khẩu. Đến nay gạo Việt Nam đã chiếm khoảng 20% tổng lượng gạo buôn bán của thế giới, trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm gần 21% kim ngạch xuất khẩu nông sản. Khoảng cách chênh lệch về giá giữa Việt Nam với cường quốc đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo ngày càng thu hẹp lại. Tuy gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện giờ vẫn còn nhiều yếu kém: tốc độ tăng sản lượng tuy lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu chưa ổn định và hiệu quả, chất lượng và giá cả xuất khẩu còn thiếu sức cạnh tranh; chưa xây dựng được thương hiệu thực sự cho gạo Việt Nam. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh trên thị trường gạo ngày càng gay gắt, xuất khẩu gạo cũng ngày càng nhiều khó khăn. Sẽ xuất hiện thêm nhiều rào cản thương mại cũng như các hình thức bảo hộ nông nghiệp mới tinh vi và phức tạp hơn, núp dưới các hàng rào kỹ thuật, các đòi hỏi vệ sinh, điều kiện lao động, các chỉ tiêu môi trường…Thêm vào đó, sự hỗ trợ từ phía nhà nước đã bị xóa bỏ trong khi sức cạnh tranh của gạo lại chưa đủ manh. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, đòi hỏi phải có sự phối hợp từ mọi ngành, mọi cấp và mọi cá nhân mà trước hết là phải bắt đầu từ sự chuyển biến về chất trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng một thương hiệu gạo trên thị trường thế giới là những việc làm cấp bách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam đã là một thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Hy vọng rằng với những bài học kinh nghiệm tích lũy được cùng với sự nỗ lực mới, hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ còn thu được những thành tựu lớn hơn nữa, phát huy tốt nhất lợi thế so sánh của Việt Nam, đưa thương hiệu gạo Việt tới mọi nơi trên thế giới và góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống dân cư cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế. TÀI LIỆUTHAM KHẢO 1. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, Vụ thông tin và hợp tác quốc tế (2004), Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập của nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện quản lý kinh tế Trung ương (2004), Phân tích định lượng về ảnh hưởng của quá trình gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2007), Báo cáo tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Hà Nội. 5. Phan Huy Chí (2000), Hướng đến phát triển nông sản xuất khẩu vùng đồng bằng Sông Hồng, Đề tài nghiên cứu, TT Thông tin khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 6. Duy Hiếu, Thanh Hải, “Sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian qua”, báo Thương mại số 4/2000. 7. Phạm Hà (2007), “Gia nhập WTO - Hướng cam kết và những điều lưu ý”, Kinh tế 2006 – 2007, Việt Nam và thế giới, tr 18 – 20. 8. PGS.TS Nguyễn Đình Long (2007), Hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 9. TS. Nguyễn Đình Long (2000), Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hàng nông sản xuất khẩu trong thời gian tới, đề tài nghiên cứu, Viện Kinh tế Nông nghiệp. 10. Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý Nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 11. Thúy Nga (2000), “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, báo Thương mại số 4/2000. 12. Vũ Đình Ngọc (1997), Mấy vấn đề kinh doanh lương thực ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp Hà Nội. 13. Vũ Đình Phương (2004), “Xuất khẩu gạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 4/2004 (372). 14. PGS.TS Trần Chí Thành (2004), Các chính sách thúc đẩy hàng nông sản Việt Nam trong thời gian tới, Hội thảo “Chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn thập niên đầu thế kỷ XXI”, Đại học Kinh tế Quốc dân. 15. Quang Thuần (2008), “Khan hiếm gạo xuất khẩu”, Thanh niên số 26 (4417) ngày 26/1/2008. 16. Phạm Công Tú (1998), Triển vọng thị trường hàng nông sản thế giới và khả năng xuất khẩu ở Việt Nam đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu, TT Thông tin khoa học công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 17. TS. Nguyễn Trung Văn (1996), Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 18. Viện nghiên cứu thị trường và giá cả (2001), Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong ngành lúa gạo Việt Nam, Hà Nội. 19. TS. Mai Thị Thanh Xuân, Giải pháp phát triển công nghệ chế biến nông sản theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Hội thảo khoa học kỷ niệm 30 năm thành lập Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội. 20. TS. Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Công nghệ chế biến với việc nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế 10/2006 (341). 21.www.usda.gov 22.www.fao.org 23. www.customs.gov.vn 24.www.mot.gov.vn 25.www.vietfood.org.vn MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này: