Thuận Trị Đế Sủng Đổng Ngạc Phi

Thuận Trị Đế Sủng Đổng Ngạc Phi

Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠᠠᠯᡳᠪᡠᠩᡤᠠᡝᠯᡩᡝᠮᠪᡠᡥᡝᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ, Möllendorff: hiyoošngga alibungga eldembuhe hūwangheo; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là Đổng Ngạc phi (董鄂妃), Đổng Ngạc Hoàng quý phi (董鄂皇貴妃), Đoan Kính Hoàng hậu (端敬皇后) hoặc Hiếu Hiến Hoàng hậu (孝獻皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế Tổ Thuận Trị hoàng đế. Bà thường bị nhầm với Đổng Tiểu Uyển, một kĩ nữ sống vào cuối thời nhà Minh, đầu thời nhà Thanh.

Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị

Chân dung Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị

Năm Ung Chính thứ năm (1727), bà được chỉ hôn cho hoàng tử thứ tư Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (Càn Long) khi mới vừa tròn 16 tuổi.

Năm bà 25 tuổi, thái tử Hoàng Lịch đăng cơ, bà lên ngôi hoàng hậu. Hai năm sau, lễ tấn phong được cử hành chính thức.

Bà sinh được bốn người con: Hai hoàng tử và hai công chúa. Trong số đó, sau này chỉ còn lại duy nhất một công chúa còn sống và được sắc phong.

Bà nổi tiếng hiền hậu, thi hành tiết kiệm hợp lý, lại khoản đãi hậu cung, giúp đỡ Càn Long Đế chuyện trong ngoài hết mực đắc lực. Bà cũng là người được vua Càn Long cực kỳ yêu thương, sủng ái. Đến khi bà qua đời, vua vô cùng đau khổ, truy điệu không dứt, tạo thành chuyện truyền tụng mãi về sau.

Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Thị là con gái của Đại học sỹ Cao Bân. Cao thị nhập phủ Càn Long khi ông là Bảo thân vương, bạn đầu được phong Sở nữ, sau đó được phong là Trắc phúc tấn.

Ngày 26/1 năm Càn Long thứ mười hai (1745), bà được sắc phong là Hoàng Quý phi, thụy hiệu "Tuệ Hiền".

Ngày 17/10 năm Càn Long thứ mười bảy, cùng với Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng Quý phi được an táng trong Lăng Vân Linh (Đông Lăng).

Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô Thị còn gọi là Tô Giai Thị, con gái của Tô Triệu Nam.

Thuần Phi sinh ngày 21/5/1713 năm Khang Hy thứ năm mươi ba, sau này đến tuổi trưởng thành mới vào hầu hạ Càn Long.

Sau khi Càn Long đăng cơ, bà được sắc phong là Thuận tần. Tháng 12 năm Càn Long thứ 2, Tô Giai thị được sắc phong là Thuận Phi, bức họa được vẽ sau khi tấn phong.

Tháng 11 năm Càn Long thứ 10, Thuần phi được tấn phong làm Quý phi. Tháng 4 năm Càn Long hứ hai mươi lăm, bà được sắc phong Hoàng Quý phi, cũng năm đó bà qua đời, thọ 48 tuổi.

Tô Giai thị sinh được hai hoàng tử và một công chúa, con trai là hoàng tử Vĩnh Dung, người giỏi thi thơ, hội họa, thiên văn, toán học.

Kim Giai thị, nguyên là Kim thị, sinh vào ngày 25 tháng 7 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 52, Mãn quân Chính Hoàng kỳ Bao y xuất thân, là hậu duệ một gia tộc gốc Triều Tiên, gốc gác hiện ở Nghĩa Châu.

Mới vào cung, Kim thị được phong làm Quý nhân, tháng 12 năm Càn Long thứ 2 năm 1737 bà được phong làm Gia tần.

Năm Càn Long thứ tư, Kim thị hạ sinh tứ Hoàng tử Vĩnh Thành, đến năm Càn Long thứ sau, bà được tấn phong làm Gia Phi, bức họa của bà được vẽ vào thời điểm này.

Năm Càn Long thứ 11 năm 1746, Gia phi tiếp tục sinh bát hoàng tử, sau một năm Cửu Hoàng tử lại ra đời.

Năm Càn Long thứ 13 năm 1748, bà được tấn phong làm Gia Quý phi, sau đó năm Càn Long thứ mười bảy năm 1751, bà sinh Thập nhất Hoàng tử.

Tới năm Càn Long thứ 20 năm 1755, Kim thị qua đời ở tuổi 40, bà được phong là Thục Gia Hoàng Quý phi.

Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị

Lệnh phi – tức Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị là con gái của Nội quản Ngụy Thanh Thái. Gia tộc của bà vốn xuất thân từ Hán tộc. Sau khi nhập tộc, gia tộc này đổi thành Ngụy Giai thị.

Năm 1745, bà nhập cùng vào làm Quý nhân, tháng 11 năm Càn Long thứ 10 được phong là Lệnh tần.

Tháng 4 năm Càn Long thứ 14 năm 1749, bà được tấn phong Lệnh phi, bức chân dung cũng được vẽ vào thời điểm này.

Năm Càn Long thứ 30, Ngụy thị được tấn phong làm Hoàng Quý phi.

Sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, Càn Long không hề lập Hoàng hậu. Chính vì vậy, Hoàng Quý phi chính là người cai quản tam cung lục viện.

Năm Càn Long thứ 40 năm 1775, hưởng thọ 49 tuổi, thụy hiệu là Lệnh Ý Hoàng Quý phi.

Bà là người sinh được nhiều con nhất cho Càn Long, trong đó Hoàng tử Ngung Diễm sau này là vua Gia Khánh.

Thư phi Diệp Hách Lặc thị là người tộc Mãn Châu, Diệp Hách Na Lạp thị thuộc Mãn quân Chính Hoàng kỳ, xuất thân của bà cực kì hiển hách vì bà là người thuộc dòng dõi của Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, là anh trai của Hiếu Từ Cao hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị, mẹ sinh của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực.

Năm Càn Long thứ mười bốn bà vào cung là quý nhân, tháng 11 cùng năm, bà được sắc phong làm Thư tần.

Năm Càn Long thứ 14, bà được tấn phong làm Thư phi, bức chân dung được vẽ vào thời điểm này.

Năm Càn Long thứ 16, bà sinh Thập hoàng tử, bà qua đời vào năm Càn Long thứ bốn mươi hai, hưởng thọ 50 tuổi.

Khánh Cung Hoàng Quý phi Lục thị

Khánh Cung Hoàng quý phi là người Hán, con gái của Lục Sĩ Long, cũng như Thuần Huệ Hoàng quý phi đều là xuất thân dòng dõi một gia đình thường dân, không chức vụ lẫn tước vị.

Năm Càn Long thứ 5, Lục thị nhập cung, được phong làm Quý nhân. Năm Càn long thứ 16 1740, bà được phong là "Khánh tần". Bức họa chân dung của bà được vẽ vào thời điểm này.

Năm Càn Long thứ 24, Lục thị được tấn phong là Khánh phi, và được tấn phong làm Khánh Quý phi năm Càn Long thứ ba mươi ba.

Năm Càn Long thứ 39, 1774, bà qua đời, thọ 51 tuổi, không có con. Bà là dưỡng mẫu của Thanh Nhân Tông Gia Khánh đế, được ông đánh giá là người mẹ “dưỡng dục chu toàn”, “hiền hậu như mẹ đẻ”.

Khi bà mất, tang lễ được tổ chức vô cùng long trọng, được truy phong làm “Khánh Cung Hoàng Quý phi”.

Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị là người Mông Cổ chính gốc, là con gái của Đô Thống Bát kỳ, Khinh xa Đô úy Nạp Thân.

Lâm thị nhập cung khi Càn Long mới đăng cơ, được sắc phong là Dĩnh tần vào năm Càn Long thứ 1, 1751. Đến năm Càn Long thứ 24, 1759, bà được tấn phong là Dĩnh phi.

Năm Gia Khánh 13, 1798, Thái thượng hoàng Càn Long ra chiếu chỉ: “Dĩnh phi tại vị lâu năm, lại quá tuổi thất tuần, nên tấn phong làm Quý phi”.

Sau này, Gia Khánh hoàng đế tôn bà lã Dĩnh Quý thái phi, ở tại Khang Cung.

Năm Gia Khánh thứ 5, em trai Hoàng đế Gia Khánh là Ái Tân Giác La Vĩnh Lân một mình tổ chức thọ thần cho Dĩnh Quý phi. Vì không có con cái, lại một mình đơn độc trong thâm cung đã lâu, Lâm thị rất vui.

Tuy nhiên việc này khiến Hoàng đế nổi giận, khiến Dĩnh Quý phi trở nên buồn bã và lo lắng. Chỉ hai mươi ngày sau đó, bà qua đời, được an táng tại phi viên tâm trong Dụ Lăng.

Hân tần - tức Hân Quý phi Đới Giai thị - là con gái của Tổng đốc Tô Đồ, người gốc Mãn Châu.

Năm Càn Long thứ mười tám, Đới Giai thị nhập cung, năm Càn Long thứ 19, bà được tấn phong làm Hãn tần, bức chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.

Năm Càn Long thứ hai mươi tám, 1763 bà được tấn phong làm Hãn phi, tháng 11 cùng năm bà qua đời.

Đôn phi Uông thị xuất thân Mãn quân Chính Bạch kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế. Bà là mẹ của Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa, vị công chúa được Càn Long Đế sủng ái bậc nhất.

Năm Càn Long thứ 28, 1763, bà nhập cung năm 17 tuổi, khi đó Hoàng đế đã 52 tuổi, được phong là Vĩnh thường tại.

Năm Càn Long ba mươi sáu, 1771, bà được tấn phong là Vĩnh Quý nhân, sau đó là Vĩnh tần.

Ba năm sau, bà được tấn phong là Đôn phi. Năm Càn Long thứ 40, Đôn phi hạ sinh Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa.

Năm Càn Long thứ 43, Đon phi vì giết hạ nhân mà bị giáng xuống là tần, 3 năm sau mới được khôi phục chức phi.

Đến năm Gia Kanhs thứ 11, Đon phi qua đời, thọ 61 tuổi. Con gái bà là công chúa Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa sau này gả cho Phò mã Phong Thân Ân Đức (con trai cả của Hòa Thân).

Thuận phi Hữu Nộ Lộc thị, sau này bị giáng làm Thuận Quý nhân, là con gái của Tổng đốc Ái Tất Đạt

Năm Càn Long thứ 31, Hữu Nỗ Lộc thị nhập cung, được phong làm Quý nhân. Khi đó bà 18 tuổi, kém Càn Long 38 tuổi.

Năm Càn Long thứ 33, bà được phong Thuận tần, bảy năm sau được tấn phong là Thuận phi.

Năm Càn Long thứ 53, Thuận phi bị giáng xuống Thuận Quý nhân. Cùng năm đó, Thuận Quý nhân qua đời, hưởng thọ 41 tuổi.

Thuận Trị là vị Hoàng đế đầu tiên của triều Thanh, ông lên ngôi khi mới 6 tuổi và qua đời năm 24 tuổi, tại vị tổng cộng 18 năm. Suốt 18 năm đấy, Hoàng đế Thuận Trị có 31 hậu phi, trong đó có 3 vị Hoàng hậu: Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, Hiếu Khang Chương Hoàng hậu (sinh mẫu của Hoàng đế Khang Hi) và Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu (tức Đổng Ngạc phi, được truy phong Hoàng hậu sau khi mất).

Trong 28 phi tần còn lại có một người được ban phong hiệu kỳ lạ nhất, đó chính là Bút Thập Hách Ngạch Niết Phúc tấn.

Vậy, tại sao Hoàng đế Thuận Trị lại ban phong hào Bút Thập Hách Ngạch Niết Phúc tấn?

Như đã biết, trong thời kỳ Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Hoàng Thái Cực, thê tử của hoàng tộc Mãn Thanh được gọi là Phúc tấn. Chẳng hạn như, Nỗ Nhĩ Cáp Xích có 4 vị Đại Phúc tấn là Đích Phúc tấn Đông Giai thị, Kế Phúc tấn Phú Sát thị, Đại Phúc tấn Diệp Hách Na Lạp thị và Đại Phúc tấn Ô Lạp Na Lạp thị.

Hoàng Thái Cực cũng có 3 vị Đại Phúc tấn là Đích Phúc tấn Nữu Hỗ Lộc thị, Đại Phúc tấn Ô Lạp Nạp Lạt thị và Quốc quân Phúc tấn Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị.

Những phi tần có địa vị thấp hơn được gọi là Trắc Phúc tấn, Thứ Phúc tấn.

Sau khi Hoàng đế Thuận Trị kế vị, hệ thống phân vị hậu phi nhà Thanh vẫn chưa hoàn thiện, các phong hào hậu phi triều trước vẫn còn được giữ lại, đồng thời xuất hiện thêm các tên gọi tương tự như Phúc tấn và Cách cách.

Về ý nghĩa của phong hào Bút Thập Hách Ngạch Niết Phúc tấn, các nhà sử học trả lời rằng, "Ngạch Niết" trong tiếng Mãn là ngạch nương, nghĩa là mẫu thân; "Phúc tấn" là phẩm cấp; và "Bút Thập Hách" có thể là họ của người này. Nhưng tất cả chỉ là suy đoán, sự thật như thế nào thì cần phải nghiên cứu thêm.

Đại hôn của Hoàng đế luôn là một trong những sự kiện quan trọng nhất của triều đình. Để đảm bảo Hoàng đế có thể nhanh chóng thích nghi với cuộc sống hôn nhân, Chiêu Thánh Hoàng thái hậu đã an bài một vài cung nữ bầu bạn với Hoàng đế Thuận Trị một thời gian trước khi thành hôn. Và đó là cách cung nữ Bút Thập Hách thị đến bên cạnh Hoàng đế.

Không có tài liệu lịch sử nào ghi chép lại gia thế của Bút Thập Hách thị. Nhưng điều bất ngờ hơn là cung nữ Bút Thập Hách thị đã chiếm được sự yêu thích của Hoàng đế Thuận Trị. Vì dung mạo xinh đẹp, khí chất dịu dàng nên lọt vào tầm mắt của Hoàng đế Thuận Trị, thường xuyên ở bên cạnh và dần trở thành phi tần của ông.

Năm Thuận Trị thứ 8 (tức năm 1651), Bút Thập Hách thị hạ sinh con trai đầu tiên của Hoàng đế Thuận Trị khi Hoàng đế chỉ mới 14 tuổi. Ông vui mừng khôn xiết và hạ lệnh nâng nàng thành phi tử của mình.

Nhưng hạnh phúc không bao lâu, Hoàng trưởng tử không may chết yểu sau 89 ngày. Tuy nhiên, Hoàng đế Thuận Trị cũng không vì thế mà đối xử lạnh nhạt với nàng, ông càng sủng ái nàng hơn gấp bội.

Sau đó, Hoàng đế Thuận Trị cử hành đại hôn. Nhưng dù sách lập nữ nhân khác thành Hoàng hậu nhưng Hoàng đế vẫn rất yêu thương Bút Thập Hách thị.

Trong 3 năm tiếp theo, Bút Thập Hách thị còn sinh cho Hoàng đế 2 người con gái (là Hoàng tam nữ và Hoàng ngũ nữ), chứng tỏ nàng vẫn được Hoàng đế sủng ái vô cùng. Tuy nhiên số phận của 2 vị công chúa này cũng vô cùng bi thảm, đều mất khi chưa đến 7 tuổi.

Đến khi Đổng Ngạc phi nhập cung, Hoàng đế Thuận Trị đã không còn tâm trí để ý đến Bút Thập Hách thị nữa. Thời gian trôi đi, dung mạo mỹ miều của Bút Thập Hách thị không còn như xưa, dần mất đi sự sủng ái của Hoàng đế.

Xuất thân của nàng cũng không hề cao quý, cho nên cuộc sống trong cung cấm ngày càng khó khăn hơn, thường xuyên bị những phi tần khác chèn ép. Sau nhiều năm sống đơn côi ở hậu cung, nàng không may mắc bệnh nặng rồi qua đời trong cô đơn nơi tẩm cung.

Bút Thập Hách thị đã lặng lẽ ra đi giữa hoàng cung nhà Thanh, đáng thương hơn nữa là thân phận thật sự của nàng cũng không được ghi chép đầy đủ trong sách sử triều Thanh.